Trong 12 nhóm hàng này có 4 nhóm hàng đạt giá trị xuất khẩu trên 5 tỷ USD, gồm: Điện thoại các loại và linh kiện, hàng dệt may, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện và giày dép các loại.
Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, 6 tháng đầu năm 2015, điện thoại các loại và linh kiện tiếp tục dẫn đầu về xuất khẩu (XK) với con số lên tới 14,6 tỷ USD, tăng 26,4%, tương đương tăng 3,05 tỷ USD về số tuyệt đối so với cùng kỳ năm 2014.
Riêng tháng 6, cả nước XK 2,63 tỷ USD đối với nhóm hàng điện thoại các loại và linh kiện. Những đối tác chính nhập khẩu (NK) nhóm hàng này trong 6 tháng đầu năm 2015 là: EU với 4,97 tỷ USD, tăng 18,8%; Tiểu Vương quốc Ả rập Thống Nhất: 2,21 tỷ USD, tăng 15%; Hoa Kỳ: 1,3 tỷ USD, tăng 77,3%...
Hàng dệt may đứng thứ 2 với tổng trị giá trị XK đạt 10,26 tỷ USD, tăng 10,2% so với cùng kỳ năm 2014. Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản tiếp tục là 3 đối tác lớn nhất NK hàng dệt may của Việt Nam với kim ngạch và tốc độ tăng so với cùng kỳ năm 2014 tương ứng là: 5,13 tỷ USD và 13,1%; 1,54 tỷ USD và 4,9%; 1,22 tỷ USD và 4,7%.
Trị giá XK hàng dệt may của Việt Nam trong tháng 6 đạt 2,12 tỷ USD, tăng 24,3% so với tháng trước, trong đó xuất sang thị trường Hoa Kỳ đạt 1,09 tỷ USD, tăng 28,5%, sang EU đạt 382 triệu USD, tăng tới 29,7% và sang Nhật Bản đạt 213 triệu USD, tăng 21,8%.
Đứng thứ 3 là máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện với kim ngạch XK trong tháng 6 đạt 1,34 tỷ USD, tăng 2,2% so với tháng trước. Như vậy, đến hết tháng 6, trị giá XK nhóm hàng này đạt 7,36 tỷ USD, tăng 60%, tương đương tăng 2,76 tỷ USD về số tuyệt đối.
Trong đó, XK sang EU đạt 1,45 tỷ USD, tăng 70,5%, sang Hoa Kỳ: 1,33 tỷ USD, tăng 76%; Trung Quốc: 1,25 tỷ USD, tăng 34,8%; Hồng Kông: 835 triệu USD, tăng 161%... so với cùng kỳ năm trước.
Với tổng trị giá XK trong nửa đầu năm 2015 đạt 5,85 tỷ USD, tăng 21,2% so với cùng kỳ năm 2014, giày dép các loại là nhóm hàng đứng thứ 4.
6 tháng đầu năm, riêng kim ngạch XK mặt hàng giày dép sang hai thị trường Hoa Kỳ và EU đều là 2 tỷ USD với tốc độ tăng lần lượt là 30,2% và 17%.
Máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng; gỗ và sản phẩm gỗ; thủy sản là 3 nhóm hàng đạt giá trị XK 6 tháng qua đều đạt trên 3 tỷ USD.
Trong đó, máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng đạt 3,81 tỷ USD, tăng 10,8% so với cùng kỳ năm 2014. Cũng tính đến hết tháng 6/2015, XK nhóm hàng này sang Hoa Kỳ là gần 716 triệu USD, tăng 21,6%; sang Nhật Bản: 697 triệu USD, tăng nhẹ 2,3%; sang Trung Quốc: 319 triệu USD, tăng 23,7% so với cùng kỳ năm trước.
Gỗ và sản phẩm gỗ đạt hơn giá trị XK trong 2 quý đầu năm 2015 là 3,17 tỷ USD, tăng 9,4% so với cùng kỳ năm 2014. Nhóm hàng này xuất sang Hoa Kỳ đạt 1,21 tỷ USD, tăng 18,8%; sang Nhật Bản: 470 triệu USD tăng 3%; sang Trung Quốc: 425 triệu USD giảm 5,4%; … so với cùng kỳ năm 2014.
Tổng trị giá XK hàng thủy sản trong 6 tháng đạt hơn 3 tỷ USD, giảm 15,2% (tương ứng giảm 537 triệu USD) so với cùng kỳ năm trước. XK sang một số thị trường chính như Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản đều giảm mạnh. Cụ thể xuất sang Hoa Kỳ đạt 579 triệu USD, giảm 27,7%; sang EU đạt 547 triệu USD, giảm 14%; sang Nhật Bản đạt 457 triệu USD, giảm 10,4%.
Tính từ đầu năm đến hết tháng 6/2015, XK dầu thô đạt gần 4,7 triệu tấn, tăng 2,7% so với cùng kỳ năm trước, nhưng do đơn giá bình quân giảm tới 47,7% nên trị giá XK dầu thô trong 6 tháng qua chỉ đạt 2,14 tỷ USD, giảm 46,3% (tương ứng giảm 1,85 tỷ USD).
XK cà phê trong tháng 6 chỉ đạt 104.000 tấn, giảm 1,2% so với tháng trước, nâng tổng lượng XK của mặt hàng này trong 6 tháng năm 2015 đạt hơn 684.000 tấn, trị giá đạt 1,4 tỷ USD, giảm 36% về lượng và giảm 35,4% về trị giá so với 6 tháng năm 2014.
Cà phê của Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2015 được xuất chủ yếu sang EU với hơn 342.000 tấn, chiếm 50% tổng lượng xuất khẩu cà phê của cả nước.
Trị giá XK trong 6 tháng đầu năm của các mặt hàng như xơ, sợi dệt các loại, túi xách, ví, va li, mũ và ô dù đều tăng so với cùng kỳ năm trước.
Trong đó, mặt hàng xơ, sợi dệt các loại đạt 1,26 tỷ USD, tăng 7,2%. Túi xách, ví, va li, mũ và ô dù đạt 1,45 tỷ USD, tăng 17%.
Đứng thứ 12 là mặt hàng gạo, dù giá trị XK nửa đầu năm 2015 đạt 1,29 tỷ USD nhưng lại giảm 12,1% so với cùng kỳ năm 2014.
Nguồn: Báo điện tử chính phủ